Toàn cảnh sân bay biên Hòa giai đoạn (1954 –
1975)
Sự ra đời và hoạt động của sân bay Biên Hòa đến năm 1954
Những năm 20 của thế
kỷ XX, nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và khai thác thuộc địa lần thứ 2, tại
tiểu khu hành chính Biên Hòa thuộc tỉnh Biên Hòa thực dân Pháp đã chiếm một khu
vực đất giáp ranh hai xã Tân Phong và Bình Trước xây dựng một sân bay loại nhỏ,
gọi tên là sân bay Tân Phong. Lúc mới xây dựng sân bay chỉ rộng khoảng 3 km2, với một đường
băng cấp phối đá đỏ dài khoảng 600m theo hướng Bắc – Nam, song song với đoạn đường
liên tỉnh 24 cũ thẳng từ Dốc Sỏi lên khu vực Bình Ý (nay thuộc xã Tân Triều,
huyện Vĩnh Cửu, Tinh Đồng Nai). Thường trực trên sân bay là một phi đội máy bay
chiến đấu (avion de chasse) và máy bay quan sát loại chuồn chuồn cánh kép, nhân
dân thường gọi là “máy bay đầm già” sản xuất sau chiến tranh thế giới thứ I.
Trong sân bay Pháp còn xây dựng một xưởng sửa chữa máy bay được xem là lớn nhất
Đông Dương lúc bây giờ. Thời kỳ này, trên sông Đồng Nai (đoạn gần chợ Biên Hòa
ngày nay) còn có một bến đậu mấy chiếc thủy phi đoàn (may bay đậu dưới nước
theo lối gọi hồi đó).
Trong những năm (1940 – 1945), phát xít Nhật đưa quân vào Việt Nam, lật đổ
chính quyền thực dân Pháp giành quyền cai trị Việt Nam, người Nhật tiếp tục
nâng cấp đường băng của sân bay Biên Hòa phù hợp cho việc sử dụng các loại máy
bay khu trục chiến đấu của Nhật. Sau khi Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ
hai, chúng nâng
cấp nối dài đường băng ra 1.400m, lát ghi sắt phù hợp cho việc
sử dụng máy bay chiến đấu khu trục kiểu mới
Skyrairder. Xung quanh sân bay không có hàng rào, chỉ có một số tháp canh với
đèn pha đêm đêm rọi sáng để phòng lực lượng vũ trang của ta đột nhập phá hoại.
Từ năm 1952, khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp của Mỹ
ở Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt, Pháp tiếp tục mở rộng vành đai bảo vệ
sân bay và xây dựng thêm một đường băng mới dài 1.700m phục vụ cho các loại máy
bay máy bay vận tải và chiến đấu cơ do mỹ viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến
tranh Đông Dương như: Bearcat và Dakota... đáp xuống. Thực dân Pháp còn cho xây
dựng thêm một tháp canh lớn và một số tháp canh nhỏ tại xóm Giữa làng Tân Phong
(nay thuộc khu phố 11, phường Tân Phong) để bảo vệ an toàn sân bay và nội ô. Thất
bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Genèvo
(20/7/1954) rút quân khỏi Việt Nam. Thực hiện những nội dung của Hiệp định đã ký kết; trước khi rút khỏi Việt Nam ngày 23/6/1956, Cao ủy Pháp tại Việt Nam thực hiện việc
chuyển giao sân bay Biên Hòa lại cho chính phủ Việt Nam cộng hòa.
Sân bay Biên Hòa trong
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam (1954 – 1975)
Đế quốc Mỹ với âm mưu xâm lược Việt Nam, ngay sau khi Hiệp định Genèvo được ký kết, Mỹ đã nhanh chóng xúc tiến kế hoạch xâm
nhập vào miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, dựng lên một chính quyền
Việt Nam Cộng hòa làm tay sai cho Mỹ, dùng mọi biện pháp, thủ đoạn hòng phá hoại
Hiệp định Genèvo nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta, mọi thủ đoạn của đế quốc Mỹ
thực chất là xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự “ngăn chặn làn sóng đỏ lan tràn xuống vùng Đông Nam Á”. Đế quốc Mỹ đổ tiền
của, nhiều phương tiện hiện đại xây dựng hàng loạt sân bay, bến cảng, kho tàng,
đường giao thông... là cơ sở hạ tầng phục vụ ý đồ chiến lược này. Sân bay Biên
Hòa là một trong những sân bay quan trọng nhất ở miền Nam được Mỹ chú trọng.
Sau khi thực dân Pháp bàn giao sân bay Biên Hòa được xây dựng thành Căn cứ trợ lực không quân số 2 của quân đội Việt Nam Cộng
hòa. Trong báo cáo số 896-M/VP ngày 4/8/1958 của Tỉnh trưởng Biên Hòa gửi Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa có viết như sau: “Phi trường
Biên Hòa của căn cứ trợ lực không quân số 2 tại Biên Hòa, hiện vẫn còn nguyên
tình trạng từ ngày Pháp trao trả lại, chưa có điều kiện để sửa sang hàng rào
giây kẽm gai và đường phòng thủ, bên ngoài phía Đông Bắc và Tây Bắc phi trường
bị cây rừng mọc chen lẫn, lấp hết đường giăng kẽm gai”. Ngoài ra, trong một báo cáo số 7460A-BNV/HC/D11 ngày 15/10/1958
của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa gửi Đổng lý Văn phòng Phủ
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về việc điều tra tình
hình phi trường công tọa lạc tại các tỉnh Nam phần cũng có đề cập: “Phi trường Biên Hòa tọa độ 48PXT 9912, cách
tỉnh lỵ tới 1500 thước về hướng Đông Bắc. Hiện trạng: diện tích 4.290.300 thước vuông; phi trường này chỉ có 2 đường bay: đường
thứ nhất dài 1400 thước. Đã có từ lâu, đường thứ nhì dài 1.700 thước làm vào
khoảng năm 1952, còn tốt cho phi cơ lên xuống...”.
Nhận thấy sân bay Biên Hòa có một vị trí
chiến lược hết sức quan trọng, các cố vấn quân sự của Mỹ
đã đề xuất
với chính quyền Sài Gòn về việc xây dựng một sân bay tại
khu vực Biên Hòa để làm vệ tinh phòng vệ cho Sài Gòn trước những cuộc tấn công của quân
ta. Để thực hiện việc nâng cấp
và mở rộng sân bay, ngay từ năm 1958, Bộ Quốc phòng ngụy và
Tòa hành chánh Biên Hòa ra thông cáo đuổi dân để lấy đất, hạn đến tháng 11 năm 1960 tất cả mọi nhà đều phải rời khỏi khu vực quy định.
Nhân dân
xã Tân Phong dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Vĩnh Cửu đã thực hiện cuộc
đấu tranh chống lại viêc cướp của Mỹ - ngụy kéo dài trong
suốt bốn năm, mặc dù không giữ được đất, được
làng nhưng
đã thể hiện được lòng yêu quê hương nồng thắm và ý chí kiên
cường của nhân dân xã Tân Phong.
Chính quyền Mỹ -
ngụy tiến hành khẩn trương quy hoạch công trình sân bay
với việc nâng cấp và mở rộng sân bay Biên Hòa lên khoảng 20km2 (gấp 6 lần sân bay cũ),
Năm 1963, sân bay Biên Hòa được chính quyền Mỹ ngụy xây dựng, nâng cấp hoàn thiện với diện tích khoảng
49km2 (gấp 6 lần sân bay cũ), chu vi sân bay mở rộng ra phía Bắc (xã Bình Ý), hướng Đông ra ấp Bà Thức (xã
Tân Phong), hướng Tây núi Bửu Long và hướng Nam là khu vực dân cư nội ô thị xã
Biên Hòa. Có hai đường băng dài 3.600m và 1.000m, thiết kế theo hướng Đông – Tây, sân bay được trang bị hệ
thống rada, chỉ huy liên lạc rất tối tân, có thể đảm bảo
cho các loại máy bay chiến đấu, máy bay vận tải hoạt động bất kể ngày đêm và mọi
điều kiện thời tiết.
Bên trong sân bay được bố trí theo 5 khu vực: khu vực 1 chứa
máy bay ném bom chiến lược B75 là loại máy bay chiến lược Mỹ; khu vực 2 chứa
may bay khu trục AD6 (Skyrairder), và
các loại may bay hiện đại như F.101, F.102; khu vực 3 chứa máy bay L19, trực thăng, máy bay, vận tải và máy bay do
thám U2; khu vực 4 là nhà ở cố vấn Mỹ, sĩ quan ngụy, câu lạc bộ sĩ quan; khu vực
5 là kho xăng, kho bom. Xung quanh sân bay là một hệ thống đường giao thông dành cho xe tuần tra và phục vụ việc di chuyển xung quanh sân bay. Sân bay Biên Hòa còn là căn cứ huấn luyện, đào tạo giặc lái trên chiến trường miền Nam. Để duy trì hoạt động
về mọi mặt của sân bay ngoài việc thường xuyên duy trì khoảng 500 sĩ quan, phi công, Mỹ -
ngụy đã huy động hơn 2000 nhân viên kĩ thuật, lính thợ binh lính đồn trú bảo vệ. Do sân bay Biên Hòa có tầm
quan trọng đặc biệt nên Mỹ ngụy tổ chức bố phòng rất
nghiêm ngặt với nhiều lớp hàng rào kẽm gai có chiều rộng gần 1m, bãi
mìn, lựu đạn dày đặc và nhiều lô cốt. Ban đêm, sân bay được soi sáng bởi một hệ
thống đèn pha cực mạnh. Lực lượng bảo vệ sân bay gồm một đại đội pháo binh, một
đại đội xe tăng, một đội quân khuyển (100 chó béc-giê) và một đến hai tiểu đoàn bộ binh. Tại cổng chính sân bay còn có một đại đội thuộc lực lượng an ninh quân đội
kiểm soát chặt chẽ việc ra vào, bên ngoài có một tiểu đội
quân Mỹ và một tiểu đoàn lính bảo an ngụy thường xuyên canh gác. Gần sân bay có
sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, hai tiểu đoàn lính ngụy
đóng ở thị xã Biên Hòa sẵn sàng cơ động ứng chiến khi cần. Ngoài ra, còn có một
tiểu đoàn của sư 5 ngụy được giao nhiệm vụ tuần tiễu ven rừng cách sân bay 10km
đề phòng các cuộc đột nhập vào sân bay. Cùng với lực lượng bố phòng ở mặt đất, trên khu vực sân bay thường xuyên có
máy bay luân phiên tuần tiễu là một phi đội máy bay lên thẳng HU-1A và Skyrairder ở Tân Sơn Nhất sẵn sàng ứng chiến. Tàu địch cũng luôn đi
lại tuần tiễu trên sông Đồng Nai để đảm bảo an toàn hơn nữa cho sân bay. Mỹ và quân
đội tay sai còn liên tục mở những cuộc hành quân lùng sục chung quan sân bay nhằm
ngăn chặn mọi hoạt động của quân ta trong khu vực này.
Với việc xây dựng và bố phòng chặt chẽ Mỹ ngụy cho rằng sân bay này là một sân bay đặc biệt an toàn và bí mật tưởng
chừng một con chuột cũng không thể lọt vào; xem sân bay chính là tấm lá chắn
không quân bảo vệ Sài Gòn trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh Việt Nam.
Các máy bay tiêm kích xuất phát từ đây có thể bao quát được toàn bộ khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, tấn công yểm trợ kịp thời cho các lực lượng của Mỹ và ngụy
quân Sài Gòn khi xảy ra giao tranh dưới mặt đất. Cũng từ đây máy bay của đế quốc Mỹ
hàng ngày đã cất cánh tàn sát đồng bào miền Nam như vụ ném bom trường học Cầu
xe, Linh Phụng giết chết hàng chục em học sinh; vụ thảm sát ngày 27/9/1964, gây
ra cái chết của 536 thường dân vô tội và hàng trăm người bị thương tại khu vực
ngã ba Giồng Sắn (nay thuộc ấp Bến Đình, xã Phú Đông, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai... Sân bay Biên Hòa cũng là căn cứ xuất phát của các
loại máy bay Mỹ tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc, kể cả Lào và
Camphuchia.
Sân bay Biên Hòa cũng là nơi quân đội Mỹ sử dụng để chứa chất độc Da Cam trước
khi được mang đi rải khắp miền Nam Việt Nam. Hơn 80 triệu lít chất độc đã được rải xuống ở miền Nam Việt Nam trong một
chiến dịch có mật danh là “Chiến dịch Ranch Hand” và sân bay Biên Hòa là địa
bàn trọng điểm nhất. Theo số liệu của quân đội Hoa Kỳ, sân bay Biên Hòa được sử
dụng để cất trữ, xử lý, vận chuyển 98.000 thùng cỡ 45 gallon (170 lít) Chất Da
cam, 45.000 thùng Hóa chất trắng và 16.000 thùng Hóa chất xanh, trong đó nhiều
chất có chứa 2,3,7,8-tetrachlorodibenzo-p-dioxin (TCDD) – một loại phụ phẩm gây
ô nhiễm. Mục
đích của quân Mỹ khi sử dụng những loại hóa chất này làm rụng lá cây tại các
cánh rừng và đồng ruộng, để
quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam Việt Nam không còn nơi trốn tránh. Ngoài tác hại cho
môi trường, loại hóa chất này còn gây hậu quả trầm trọng cho tính mạng, sức khỏe
của nhiều người Việt, thậm chí tới các thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Ngày nay, sau hơn 40 năm kết thúc chiến tranh, sân bay Biên Hòa vẫn là một
khu vực điểm nóng về mức độ nhiễm điôxin cao còn sót lại và đó là một minh chứng về tội ác
của quân
đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam không chỉ có những vụ thảm sát, tra
tấn, ném bom mà
còn có hoạt động rải chất độc da cam xuống miền Nam Việt Nam.
Quân giải phóng tấn
công vào sân bay Biên Hòa
Sân bay Biên Hòa - mục
tiêu tiến công của quân giải phóng
Sân bay Biên Hòa luôn là mục tiêu quan trọng
trong những đợt tấn công của quân giải phóng cùng các lực lượng biệt động của
ta ở miền Nam Việt Nam trong suốt những năm chiến tranh chống đề quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc tiến công đầu tiên vào sân bay Biên Hòa dành chiến thắng vang dội đã
làm nức lòng quân dân cả nước diễn ra vào đêm 31/10/1964, trong trận
này Đoàn pháo binh U80 của Miền bắn 140 quả đạn cối vào sân bay, phá hủy 59 máy
bay (trong đó có 21 máy bay B57 tối tân của Mỹ, 11 máy bay AD6, 1 máy bay do
thám U2), diệt và làm bị thương 293 tên địch, thiêu hủy và nổ tung Hoàn toàn 2
kho đạn lớn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát và 18 căn trại lính. Sau trận đánh Lo-
ren Bếch-cơ một thượng sỹ quân đội Mỹ được giao nhiệm vụ bảo quản sân bay đã
kinh hoàng nói rằng: “Không có một nơi
nào tránh được đạn súng cối, thật giống như một cuộc liên hoan ở dưới địa ngục,
trong đó tất cả các yêu quái đang bay bổng”.
Trung tá Mỹ Rây-Môn chỉ huy hành quân ở sân bay Biên Hòa nói: “Tất cả các viên đạn súng cối đều rơi dồn dập
trong khoảng 15-20 phút, trong đó có hơn 100 phát trúng cứ điểm”.
Trận đánh đã giáng một đòn đầu tiên vào sân bay Biên Hòa của Mỹ-ngụy, chiến thắng
đã làm nức lòng quân và dân toàn miền nam cũng như đồng bào cả nước, đồng thời
làm cho kẻ thù run sợ. Sau chiến thắng sân bay Biên Hòa Bác Hồ đã làm bài thơ
(với bút danh Chiến Sĩ) đăng trên báo Nhân dân số 3878 ngày 12/11/1964 ca ngợi
chiến thắng như sau:
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu;
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu.
Thành đồng trống thắng lay lầu trắng;
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Sau chiến thắng đầu
tiên, quân ta còn tổ chức nhiều trận đánh vào sân bay Biên Hòa như: trận đánh
vào ngày 23/8/1965 của Tiểu đoàn 34 pháo binh (đoàn U 80); trận đánh 23 giờ đêm
11 rạng 12/5/1967 của Trung đoàn pháo 274 (tên lửa ĐKB); trận đánh 0 giờ ngày
31/1/1968 của Trung đoàn 4 sư 5 Miền; trận đánh ngày 10/9/1972 bằng hỏa tiễn
ĐKB và hỏa tiễn H.12củ a Tiểu đoàn 14 thuộc Đoàn đặc công 113 vào các mục tiêu
trong sân bay Biên Hòa... trong mỗi trận đánh quân ta phá hủy nhiều máy bay các
loại và phương tiện chiến tranh và sinh lực của Mỹ ngụy.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm
1975, tại Biên Hòa trận địa pháo tầm xa 130 ly của quân ta ở Hiếu Liêm (chiến
khu Đ) nã đạn dồn dập vào các căn cứ sân bay Biên Hòa, ngày 25/4/1975,
quân đội ngụy Sài Gòn tại sân bay Biên
Hòa buộc phải di tản, rút lui toàn bộ, ta chiếm được sân bay Biên Hòa với hai
đường băng chính gần như nguyên vẹn cùng rất nhiều máy bay chiến lợi phẩm của
địch. Trong những chiến lợi phẩm thu được có rất nhiều máy bay với chủng loại
khác nhau, trong đó riêng máy bay tiêm kích phòng không F5 của Mỹ ta thu được
trên 40 chiếc bao gồm F-5A, F-5B, F-5E, hơn nửa trong số đó còn sử dụng được để
chiến đấu và huấn luyện phi công.
Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng,
ngày 21/5/1975, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 78/QĐ-QP thành lập Trung đoàn
không quân chiến đấu mang phiên hiệu Trung đoàn 935 trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân
chủng Phòng không – Không quân, đóng tại sân bay Biên Hòa. Ngày nay, sân bay
Biên Hòa vẫn được Không quân ta tiếp tục sử dụng, Trung đoàn Không quân Tiêm
kích 935 thuộc sư đoàn 370 được biên chế tại sân bay Biên Hòa với lực lượng sẵn
sàng chiến đấu bao gồm các máy bay Su-30MK2V (chủ lực) cùng với một số cường
kích A37 và các loại máy tiêm kích F5./.
Nguyễn Trần Kiệt
Ảnh: internet
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai,2000,
Những ngày kỷ niệm và lịch sử, nhà xuất bản Đồng Nai.
2. Bộ Tham mưu Quân khu VII,1993, Đoàn Pháo
binh Biên Hòa phóa binh miền, Nhà in Bộ tham mưu QK7.
3. Hồ Sơn Đài (cb)1990, miền Đông chiến công,
Nhà xuất bản Đồng Nai.
4. Hà Văn Lâu,1990, Căn cứ quan sự của đế
quốc Mỹ, NXB như thật sự 1960.
5. Nguyễn Yên Tri (cb),1989, Tân Phong 40 năm
đấu tranh và xây dựng, nhà xuất bản Đồng Nai.
6. Trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 31 tháng 10
năm 1964 H- QĐN.1964.
7. Quân chủng Phòng không – Không quân,
2015, Lịch sử Trung đoàn 935 (1975 – 2015), NXB Quân đội nhân dân.