Cùng với sự phát triển của lịch sử
thì xã hội thị tộc mẫu hệ dần phải nhường chỗ cho xã hội phụ hệ, trong đó vai
trò người đàn ông là chính, là quyết định. Đặc biệt, bước sang thời kỳ phong kiến
với sự du nhập của tư tưởng Nho gia thì địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội chỉ còn
được gói trọn qua ba trạng thái “Tại gia
tọng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” có nghĩa là cả ba giai đoạn của
đời người thời thơ ấu, khi trưởng thành, lúc xế chiều chỉ gói gọn trong hai chữ
phục tùng. Gia đình luôn được xem là cái lõi của Nho gia thế nhưng Nho gia chưa
bao giờ coi phụ nữ là trung tâm của gia đình và xã hội, mà chỉ được xem như là
một bộ phận bên lề, trở thành một cái bóng ủ dột đến tội nghiệp trong chính gia
đình mình. Phụ nữ ngày xưa không được đến trường vì cái lẽ đương nhiên là không
bao giờ “đái qua ngọn cỏ”, trong khi đó đàn ông có quyền lực gần như vua trong
cái “lãnh địa” gia đình. Quanh năm, suốt tháng mọi việc dù giỗ, tết trong làng
hay ở họ người đàn ông vẫn là đại diện duy nhất có bổn phận đại diện cho gia
đình và thế là mặc sức rong chơi với những cuộc nhậu mà không cần biết vợ con
mình ở nhà ăn gì, nghỉ gì.
Trong thời kỳ phong kiến, người đàn
ông luôn phấn đấu để trở thành mẫu người quân tử với vai trò là “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và đây gần như là một nguyên tắc
bởi vậy mọi hành động đi ngược lại quyền lực của người đàn ông được coi là tội
lỗi, sự phản kháng của người phụ là không thể, nên đành cam chịu và lặng lẽ và
đôi khi vẫn được hiểu sai là sự dịu dàng. Hàng ngàn năm Nho gia đã tước bỏ lâu
dài mong ước được bày tỏ của người phụ nữ dù chỉ là một nổi niềm, họ chỉ được
phép nhận những gì đàn ông có thể cho chứ không thể ngược lại, càng ở tầng lớp
dưới trong xã hội, sự bất công càng lớn. Ở thời kỳ này, cái tuyệt vọng và cay
nghiệt đối với số phận của người phụ nữ còn
ở vấn đề sinh con, đẻ cái khi mà quan niệm của xã hội là “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (trong ba điều bất hiếu cái lớn
nhất là không có con để nối dõi tông đường) kỳ lạ thay chuyện sinh con trai hay
gái là chuyện của chuyện đó, chuyện may rủi thế nhưng đối với Nho giáo lại xem
tội lỗi này thuộc về người phụ nữ. Những người phụ nữ không may mắn chỉ biết
suy sụp rất nhanh trước sự vô tri của thời gian, họ chẳng biết làm gì hơn khi
không sinh con trai theo đúng “đơn đặt hàng” của xã hội.
Chế độ đa thê tồn tại hàng ngàn
năm đã để lại nhiều di hại khó gột rửa, vai trò của người đàn ông trong gia
đình và xã hội đã tạo ra lợi thế để xác lập chế độ gia trưởng, người phụ nữ chỉ
biết phục tùng với chức phận nấu cơm, sưởi ấm và … sinh con. Bị trói buộc với
vô vàn các bổn phận và nghĩa vụ như không được ăn cơm cùng mâm với chồng, không
được lên nhà thờ thắp nhang lúc “đến tháng”, phải chịu đựng rất lâu, thật nhiều
tình cảnh “ông ăn chả” mà bà không có
điều kiện để “ăn nem”. Chế độ đa thê
đã loại trừ lâu dài bóng dáng thần tình yêu ra khỏi cuộc sống, sẽ không ngạc
nhiên khi cả phương Đông nói chung và ở
Việt Nam nói riêng lại vắng bóng vị thần tình yêu, trong khi đây là vị thần số
một của văn minh phương Tây. Người Pháp có câu “phải có hai người mới có thể khen trời đẹp” thế nhưng ở phương
Đông suốt ngàn năm phong kiến chỉ thấy bóng dáng của một người.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
đã mang đến cho người phụ nữ Việt Nam một món quà vô giá. Nhà nước chính thức
khẳng định quyền bình đẳng không phân biệt giới tính nam nữ, Luật Bình đẳng giới
cũng được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/2007. Tuy nhiên, từ đó cho đến
nay ý thức bảo thủ của Nho giáo được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ vẫn tiếp tục
chi phối các mối quan hệ người đàn ông vẫn tiếp tục đi sớm về muộn, có thể tham
gia bất kỳ cuộc vui nào nếu thích, trong khi ấy chắc chắn gia đình sẽ tan vỡ nếu
vài ba lần người phụ nữ trong gia đình cũng làm như vậy; phụ nữ vẫn phải nhường
nhịn, hy sinh cho chồng nhiều hơn những gì họ đáng được hưởng và tiếp tục buồn
tủi trước sự ích kỷ, ngạo mạn của đàn ông nói chung. Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình được Quốc hội nước ta thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007, để đảm bảo pháp luật sẽ trừng trị cả chồng, hoặc
vợ nếu thể hiện hành động bạo lực trong gia đình nhưng chắc chắn một điều rằng
thiệt thòi vẫn thuộc về phụ nữ như nó vẫn thế từ lâu rồi.
Đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đai hóa và hội nhập quốc tế, quan niệm xã hội về địa vị của người phụ nữ rồi
cũng khác xưa, phụ nữ được coi trọng và bình đẳng với nam giới, vì phụ nữ ngày nay đã khẳng định được họ có thể gánh vác
những trọng trách lớn của đất nước của gia đình và mọi vấn đề khác trong xã hội.
Trong rất nhiều gia đình Việt Nam hiện nay người phụ nữ đã có một vị trí đáng kể
về mặt thu nhập kinh tế, họ ít khi là lao động chính, vai trò đóng góp về kinh
tế có thể là không nhiều nhưng khả năng “tích lũy” và “cầm giữ” là vấn đề trọng
yếu của họ trong bài toán thu - chi của cuộc đời. Ước muốn thay đổi cái cũ đã
nhàm chán là thuộc tính muôn đời nhưng chỉ đến bây giờ người phụ nữ mới thực sự
có phương tiện hiệu quả và cần thiết./.
Nguyễn Trần Kiệt