Ngày 22/12/2024, Tổng Bí
thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Bộ
Chính trị yêu cầu quán triệt thực hiện tốt các nội dung sau:
* Về quan điểm:
1. Phát triển khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng
hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại,
hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển
kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá,
giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
2. Tăng cường sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự
tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây
là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai
quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá,
mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể, nguồn
lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn
dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Thể chế, nhân lực, hạ
tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi,
trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước.
Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và khuyến khích đổi mới
sáng tạo, loại bỏ tư duy "không quản được thì cấm". Chú trọng bảo đảm
nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài. Phát triển
hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc "hiện đại, đồng
bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí"; làm giàu, khai thác tối
đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy
phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.
4. Phát triển nhanh và bền
vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; ưu tiên nguồn
lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số. Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh chóng
tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến
của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới
tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm
năng, lợi thế.
5. Bảo đảm chủ quyền quốc
gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an toàn thông
tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách rời trong quá
trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc
gia.

* Về mục tiêu:
1. Mục tiêu đến năm 2030:
Tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở
nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung
bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức
trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ
quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu
thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm
3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo,
trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt
Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước
tiên tiến.
- Đóng góp của năng suất
nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu
sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%.
Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến
của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt
80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số
doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng,
phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số
phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
- Kinh phí chi cho nghiên
cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%;
bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Hệ
thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được sắp xếp lại bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo. Nguồn
nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người
trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu
vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số
lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 -
18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.
- Hạ tầng công nghệ số
tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước
tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí
tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối,
bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh
và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc. Hoàn thành xây dựng đô thị
thông minh đối với các thành phố trực thuộc Trung ương và một số tỉnh, thành phố
có đủ điều kiện. Thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu
thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.

- Quản lý nhà nước từ
Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa
các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng
bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu. Phát triển
Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức
cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh
không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
2. Tầm nhìn đến năm 2045:
Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc,
góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có
quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp
công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi
mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước
phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên
tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới
đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.
Nghị quyết số
57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính
chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá, để đưa đất nước phát triển
mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới./.